Từ satna đốn ngộ đến thời gian khoảnh khắc và yếu tố bất ngờ trong thơ Haiku Nhật Bản
Phương Tây có Rondeau, Ballad, Sonnet... Phương Đông có Đường
thi, cổ phong, có Sloka, có Sijo, lục bát... đều là những thể thơ cổ ngắn gọn,
nhỏ nhắn, xinh xắn như lá trên cành. Các thể thơ trên đều được ghi nhận như những
thành tựu đỉnh cao trên hành trình văn học và thi ca cổ điển của dân tộc và thế
giới. Trong vườn hoa thơ ca ấy có thể thơ Haiku của Nhật Bản với 17 âm tiết
(5-7-5) thật đơn sơ và dung dị. Có thể ví von Haiku như chiếc lá bé nhỏ nhất
trên cội cành xum xuê của cổ thụ ngàn thơ.
Tại sao ngày xưa và đến cả ngày nay, không chỉ người Nhật mà
cả thế giới Đông - Tây đều yêu thích và lựa chọn thể thơ này làm phương tiện
nghệ thuật hữu hiệu để trao gởi nhận thức, tâm tư tình cảm hay để nhằm mài sắc,
khai mở tuệ giác mà đạt đại ngộ như các thiền sư xưa?
Chúng ta có thể tìm ra được thật nhiều câu trả lời với
nhiều phần trăm chính xác cho câu hỏi trên. Một trong những đáp án thú vị nhất đó
chính là yếu tố bất ngờ và hiệu quả thẩm mỹ kỳ lạ do nó mang lại. Trước khi giải
mã cấu tứ bất ngờ của những bài thơ Haiku, có lẽ cần thiết phải có những hiểu
biết cơ bản về cơ sở triết học thâm sâu của nét đẹp nghệ thuật đặc thù này. Đó
chính là khái niệm “satna đốn ngộ” trong tư tưởng triết học Phật giáo Thiền
tông.
1. Từ “satna đốn ngộ” của Thiền tông...
Đi vào đời sống tâm linh tín ngưỡng của người Nhật trên đảo
quốc xa xôi rất sớm từ khoảng thế kỷ VI, Phật giáo nói chung và Thiền tông nói
riêng từng bước thấm dần vào mọi ngóc ngách đời sống văn hóa tinh thần Nhật Bản,
hòa lẫn vào tín ngưỡng Shinto khởi nguyên và tín ngưỡng Cái Đẹp của người Nhật.
Haiku là một thể loại văn học thấm đẫm vị Thiền. Nếu phân tích từ góc nhìn nội
dung tư tưởng, ta sẽ thấy Haiku phát lộ tinh thần Phật giáo Thiền Tông trong
các cảm thức thẩm mỹ: sabi (Tịch), wabi (Đà), aware (Bi), yugen (Huyền) và
Karumi (Khinh), trong cả tư tưởng chúng sinh bình đẳng, trong tinh thần vô ngã,
vô chấp, vô ngại, trong mục đích giác ngộ thâm sâu huyền diệu của Phật giáo. Muốn
giác ngộ được chân lý, con người phải bắt đầu từ những satna, mỗi satna đưa con
người xa dần cõi tà và đến gần với miền Tịnh độ. Đường đi vạn nẻo, đạo lý cũng
vô cùng, không phải cầu là được.
Vậy “satna đốn ngộ” là gì? Trong các từ điển tiếng Việt,
trong ngôn ngữ thuyết giáo nhà Phật và trong cả ngôn ngữ đời thường, chúng ta vẫn
thường hay dùng từ “ngộ”. Đó chính là cách hiểu, cách nói vắn tắt, giản dị, mộc
mạc từ khái niệm cao siêu “satna đốn ngộ”.
“Từ điển Nho-Phật-Đạo” giải thích: Satna (Ksana) là “thuật
ngữ Phật giáo dùng để chỉ quãng thời gian ngắn nhất”. Còn “đốn ngộ” là “thuật
ngữ Phật giáo chỉ việc không cần tu hành lâu dài, mà dựa vào linh tính bỗng
nhiên giác ngộ Thiền lý, nắm vững tôn chỉ của Phật... phái Nam Tông đề xướng đốn
ngộ” [1]. Kết hợp hai thuật ngữ trên ta có thể hiểu một cách tổng hợp và ngắn gọn:
“Đốn ngộ là một thuật ngữ của Thiền học. Có nghĩa là ”lập tức giác ngộ, tức khắc
tỉnh ngộ“ Sự bừng ngộ này xảy ra trong khoảng thời gian cực ngắn mà tiếng
Sanskrit gọi là ksana [2,170].
2. ... đến thời gian khoảnh khắc và yếu tố bất ngờ trong thơ
Haiku
Từ một kiến thức lý luận cơ bản như vậy, soi vào thế giới
nghệ thuật thơ Haiku, ta mới thấy sự muôn màu của cuộc sống và chân lý. Satna đốn
ngộ làm nên đặc trưng thẩm mỹ của Haiku, thành bản chất nghệ thuật của thể loại
thơ cổ điển này, là cơ sở tạo nên yếu tố bất ngờ có thể được xem như cái cốt
lõi của cấu tứ bài thơ, tạo ra cái duyên độc đáo và sức thu hút kỳ lại của những
bài thơ bé cỏn con này.
Nếu sơ bộ làm công việc thống kê, dù không có một con số cụ
thể, chỉ bằng cảm tính và nhẩm tính, cũng có thể khẳng định hơn một nửa số bài
haiku có chứa yếu tố bất ngờ trong thời gian khoảnh khắc. Đó chỉ là những bài
thơ mà yếu tố bất ngờ phát lộ, chưa kể đến những bài thơ mà yếu tố bất ngờ ẩn
tàng nấp kín, phát hiện được hay không còn tùy thuộc vào cảm nhận, tiếp nhận của
bạn đọc. Khảo sát yếu tố bất ngờ trong thơ Haiku thường gắn với việc phát hiện
thời gian khoảnh khắc. Việc tiếp cận những bài thơ nhỏ bé này để khai thác yếu
tố bất ngờ cũng không đơn giản. Có nhiều con đường đưa ta vào Haiku vạn nẻo và
không có cái bất ngờ nào giống cái bất ngờ nào cả!
Xuất phát từ vị trí, điểm nhìn và trạng thái cảm xúc ta có
ba chủ thể chính được được đưa vào tư thế bất ngờ, đó là chủ thể thẩm mỹ, khách
thể thẩm mỹ và độc giả. Có bài thơ chủ yếu sự bất ngờ xảy ra cho một trong ba
chủ thể trên, nhưng phần lớn các bài đều tạo hiệu quả bất ngờ cho cả ba chủ thể,
nhất là chủ thể thẩm mỹ - người sáng tạo nghệ thuật, và độc giả - người thưởng
thức, đồng cảm và đồng sáng tạo. Xét về cấu tứ bài thơ và kết cấu thứ tự các
câu thơ, phần lớn yếu tố bất ngờ thường rơi vào câu thơ thứ ba - câu thơ có vai
trò kết thúc bài thơ, nhưng lại mở ra chân trời cảm xúc và suy tưởng. Tuy
nhiên, trong rất nhiều bài thơ, yếu tố bất ngờ có thể xuất hiện ở ngay câu đầu
tiên, hoặc ở câu thứ hai hoặc ở cả ba câu thơ, tạo nên một hiệu quả bất ngờ
trùng điệp (vì khảo sát qua các bản dịch thơ vốn thường phải đạt
chữ ”tín“ lẫn chữ ”nhã“, nên chúng tôi tránh sự khẳng định thứ tự câu thơ một
cách tuyệt đối khi chưa có điều kiện đối chiếu với nguyên tác). Yếu tố bất ngờ
không phải là nét đặc điểm nghệ thuật duy nhất của thơ Haiku, nên khi cảm thụ một
bài thơ cụ thể, việc lẩy ra một yếu tố bất ngờ chỉ là một thao tác phân tích
nghệ thuật có tính ước lệ. Trên thực tế, trong quá trình cảm thụ phân tích, cần
phải thấy mối liên kết thầm lặng giữa các phạm trù thi pháp thơ Haiku trong mối
qua hệ tổng hòa các cảm thức thẩm mỹ. Cũng cần phải xác định rằng, Haiku trước
hết là thi ca chứ không phải kinh kệ, cho nên chúng ta đừng nhầm lẫn, tránh đồng
nhất Thi và Thiền. Có những nhà thơ là người của cửa Thiền như Basho, Chiyoni,
Ryokan,... cũng có rất nhiều thi nhân là người thế tục. Nhưng điều đó không
quan trọng bởi vì ”Phật tại bản tâm“. Vì vậy ta có thể lọc ra, hứng lấy một
chút hương vị Thiền trong các bài Haiku một cách tự nhiên mà không định danh
Haiku là Thiền Thi. Đã biết Thiền vốn ”bất lập văn tự“, vậy cứ thế mà cảm, mà
tri, mà ngộ, tránh áp đặt mọi giáo lý cho thi ca. Hơn nữa, trong Haiku còn rất
đậm dấu ấn của Thần đạo (Shinto), Đạo giáo và tín ngưỡng Cái Đẹp của người Nhật.
Và trong mỗi chủ thể thẩm mỹ sáng tạo là hình tượng tác giả cũng khó phân định
rạch ròi hai bản thể thiền sĩ và thi nhân. Thiền sư ngộ đạo, nhà thơ cứ ngộ đời.
Đạo và đời vốn dĩ đâu phải là hai con đường song song vô tận?
Trong chương trình văn học phổ thông có tám bài Haiku được
giới thiệu. Trong đó, bài số 1 và số 2 được phân tích nhiều nhất với điểm sáng
thẩm mỹ là satna đốn ngộ và yếu tố bất ngờ.
Đất khách mười mùa sương
Về thăm quê ngoảnh lại
Edo là cố hương (Basho)
Sinh ra ở Iga, gắn bó nhiều với
Kyoto và đôi lần dừng chân ở Edo, bấy giờ là thủ phủ của chính quyền Tokugawa,
hình như Basho vẫn cứ ngỡ Edo là quê người đất khách. Hơn mười năm sương gió được
Edo bao bọc, thi nhân vẫn ngóng vọng về Iga quê mẹ. Cho đến một ngày từ biệt
Edo, chính trong cái phút giây từ biệt ấy, nhà thơ mới thảng thốt nhận ra Edo từ
đây đã trở thành cố hương, điều đó có nghĩa là bao mùa sương qua, Edo đã là quê
hương thương yêu trong ta mà ta nào có biết. Cái khoảnh khắc quay đầu ngoảnh lại
ấy thật cảm động và bất ngờ biết bao! Nhà thơ Giả Đảo đời Đường hơn 800 năm trước
trong bài thơ ”Độ Tang Càn“ khi qua sông, bến Tang Càn khuất bóng, cũng hốt
nhiên nhận ra ”khách xá Tịnh Châu dĩ thập sương“ đã trở thành ”Tịnh Châu thị cố
hương”.
Chim đỗ quyên hót / ở kinh đô / mà nhớ kinh đô (Basho)
Người Nhật gọi chim đỗ quyên là chim thời gian
(hototogishu). Đó là một thi liệu truyền thống mang tính ước lệ cao, vừa có ý
nghĩa nhớ nước thương nhà, lại có ý nghĩa tiếc nuối thời gian, hối tiếc cho cái
vô thường đã qua, đã mất. Chính cái khoảnh khắc giao mùa xuân - hè ấy, nghe một
tiếng chim thời gian mà bỗng nhiên thi nhân nhận ra nỗi nhớ tiếc khôn nguôi một
không gian xưa trong một thời gian quá khứ. Nếu ở bài thơ trên, phút ra đi nhà
thơ mới ngộ Edo là quê hương, là cố hương, thì ở bài này yếu tố bất ngờ lại
mang một nội hàm dáng vẻ khác: lạ chưa kìa, chưa xa mà đã nhớ, đang ở mà sao lại
da diết tiếc thương! Có lẽ vì trong cái tiếng kêu khắc khoải của con chim thời
gian ấy, có kinh đô của hơn hai mươi năm trước, có kinh đô của hiện tại đong đầy
và có cả kinh đô của ngàn sau, có ta - Basho của tuổi ngoài hai mươi trai trẻ,
có ta nay của xấp xỉ ngũ tuần tóc chớm bạc và biết đâu có cả ta của thiên thu
vĩnh cửu. Nhịp thời gian chợt dừng lại trong một điểm thời gian ấy, khi con
chim đỗ quyên kia nức nở hót bên thềm. Bài thơ giúp người đọc ngộ ra một điều
sâu sắc: trong cái hiện tại của ta có cái quá khứ mà ta nâng niu trân trọng và
cái hiện tại này rồi cũng sẽ là quá khứ tiếc thương của một ngày mai không xa
trên dòng thời gian miên viễn.
Basho đã từng làm kinh ngạc đến ngẩn ngơ một nhóm người yêu
thơ trên đường thiên lý mà ông tình cờ gặp gỡ. Để lại một bài thơ kỷ niệm nhân
duyên hội ngộ, mực chưa kịp ráo, người đã tiếp tục hành trình, chỉ còn lại một
vầng trăng tỏa sáng, không dùng một từ ”tròn“ mà viên mãn một trời thơ.
Vầng trăng non dại / Theo tôi từ độ ấy / Có ai ngờ đêm nay
(Basho)
Nhiều bài haiku xuất hiện cảm từ, hô ngữ ”A!“ như một tiếng
reo vui trước một sự xuất hiện bất ngờ của một khách thể thẩm mỹ đáng yêu nào
đó.
Dầu đã cạn / tôi xếp sách đi ngủ / a! chiếc gối ngời ánh
trăng (Basho)
Bài thơ không hề nói mà ta biết rằng thi nhân đã mải mê đọc
sách đến rất khuya. Và đến lúc định ngả lưng xuống gối thì bất ngờ thay, đẹp
quá đến nỗi nhà thơ phải reo lên: ”A! chiếc gối ngời ánh trăng“. Một sự xuất hiện
bất ngờ của một người bạn đến cũng thật bất ngờ, một vẻ đẹp bất ngờ và huyền diệu
quá! Đó là sự tương giao đồng cảm tuyệt vời giữa con người và vũ trụ mà ta thường
bắt gặp trong nhiều bài haiku nhưng chưa bao giờ ta hết bất ngờ, ngạc nhiên và
thích thú!
Nếu vầng trăng tra cán, / a rạng ngời / chiếc quạt (Sokan)
Thật là một phát hiện, một liên tưởng ngộ nghĩnh!
Nữ sĩ Thiền ni Chiyoni cũng đã có lần reo lên như vậy:
A! Asagao / Dãy gầu vương hoa bên giếng / Đành xin nước nhà
bên
Câu đầu tiên là một sự xuất hiện quá đỗi bất ngờ của những
bông hoa leo Asagao (tức hoa triêu nhan - gương mặt buổi sáng) khi Chiyo một
sáng tinh mơ ra giếng khơi múc nước, bất ngờ gặp một đóa triêu nhan nở trong
sương sớm. Câu thứ hai là một vẻ đẹp đến bất ngờ khi sức sống mãnh liệt khiến
Asagao bò đến quấn quít vào sợi dây gàu bên giếng. Cái mảnh mai xanh non dịu
dàng của loài dây leo bỗng làm mềm mai hóa dây gầu xù xì thô ráp. Sự tương phản
và tương hợp ở đây kết hợp thật hài hòa để làm nên một cái đẹp tự nhiên tinh
khiết đến bất ngờ. Câu thứ ba lại là một sự bất ngờ khác. Chỉ cần nói ”đành xin
nước nhà bên“, nhân vật trữ tình đã có một hành động đẹp thầm lặng và bất ngờ.
Bài thơ có nhiều khoảng trống vắng. Chấm phá trên nền trống vắng ấy là cái đẹp
bất ngờ của tự nhiên và của cả cách ứng xử, sự nâng niu trân trọng cái đẹp của
con người, của những tâm hồn Nhật Bản.
Có khi vì quá xúc động trước cái đẹp quá lồng lộng, quá bất
ngờ, nhà thơ chỉ còn biết thốt lên:
Kìa Tùng Đảo (Matsushima)/ ô kìa Tùng Đảo / kìa Tùng Đảo!
(Basho)
Còn nhiều lắm những cái đẹp bất ngờ trong một khoảnh khắc
nào đó của cuộc sống bỗng nhiên xuất hiện.
Bông hoa đỏ rụng / giữa phân ngựa / cháy thành ngọn lửa
(Buson)
Phân ngựa hay bao nhiêu hình ảnh mộc mạc, xù xì thô ráp xấu
xí khác đều vào thế giới haiku để thành thơ, thành cái đẹp của cuộc đời. Đám
phân ngựa bẩn thỉu nghèo nàn kia cũng là cái đẹp, càng đẹp hơn khi nó hài hòa
cùng bông hoa đỏ kiêu sa để bùng lên thành ngọn lửa nóng ấm, sáng chói, huyền
bí như một vị thần.
Cũng với hai hình ảnh vừa tương phản vừa tương hợp kỳ lạ, ta
còn có một bức tranh thủy mặc đẹp đến bất ngờ trong cái nhìn vô chấp của thiền
sư:
Con quạ ô, / sớm mai trong tuyết / đẹp không ngờ (Basho)
Đó có thể là phút gặp gỡ bất ngờ giữa tử đằng và người lữ
khách mệt mỏi bụi đường, là duyên kỳ ngộ giữa hoa và người:
Mỏi gót lang thang / đêm tìm quán trọ / gặp hoa tử đằng
(Basho)
Cũng là phút gặp gỡ tình cờ đó, nhưng rồi cũng bất ngờ vụt mất
nhau trên đường đời xa ngái:
Ngoái cổ ngó lại, / người tình cờ gặp / đã bụi mù lạc mất
(Shiki)
Có thể là cuộc hội ngộ chào đón quá bất ngờ đến đau lòng người
về quê cũ:
Về làng cũ, / những bụi hoa xưa / xìa gai ra đón (Issa)
Nhưng cũng có thể là một món quà dễ thương đến bất ngờ của
mùa đông:
Cời lửa lên nào, / tôi có món quà kỳ diệu / nắm tuyết trắng
phau (Basho)
Và khi đông qua, xuân đến lại một cảnh đông vui đáng yêu bất
ngờ khác:
Tuyết tan /làng quê ngập tràn/ trẻ con (Issa)
Rồi mặt trời đỏ xuất hiện mang một sức mạnh thiêng liêng thật
hùng vĩ và bất ngờ:
Mùa hoa mơ ơi / con đường núi mọc / bỗng nhiên mặt trời
(Basho)
Hay một âm thanh bất ngờ của cuộc sống:
Bão giông nguôi ngớt / cổ thụ vắng ngắt, / tiếng ve sầu
(Shiki)
Một đêm băng giá mùa đông, một điều huyền diệu đã xảy ra:
Bất ngờ ta thức / cùng đêm băng giá / khi vò nước vỡ (Basho)
“Thức“ ở đây không còn là một trạng thái sinh lý mà là một
khái niệm tinh thần. Tiếng vò nước vỡ giữa đêm dài thanh vắng buốt giá mang đậm
cảm thức Sabi (Tịch) không chỉ là một tiếng vang của cuộc sống mà còn là âm
thanh của sâu thẳm tâm linh và của đêm huyền diệu. Đó là khoảnh khắc bất ngờ đốn
ngộ đưa con người hòa vào vô tận trời đêm, vô cùng cuộc sống.
Thiền sư Ryokan lại làm ta phải bật cười khi ông mừng rỡ như
đứa trẻ thơ vì:
Kẻ trộm kia, / đã không lấy đi / vầng trăng nơi cửa sổ
Thật là một niềm vui bất ngờ và ngộ nghĩnh! Làm sao tên trộm
lấy đi được vầng trăng? Mà có ai lại xem trăng là của riêng mình chứ!
Trong giông bão, / áo rơm người chèo chống, hóa áo hoa đào
(Basho)
Cái đẹp bất ngờ ấy đã giúp ta ngộ ra, nhận ra sức mạnh và vẻ
đẹp của người lao động, lam lũ vất vả mà vẫn hết sức lãng mạn, tao nhã, thanh
cao.
Ngày đầu xuân / sao mà tôi nhớ / chiều thu cô đơn (Basho)
Sự chuyển đổi tâm trạng kỳ lạ trong bài thơ đã tạo nên một cảm
xúc ngược chiều bất ngờ trong cả chủ thể và khách thể trữ tình.
Dưới cây lao xao / chén canh, đĩa cá / đều vương hoa đào
(Basho)
Bài thơ là một bữa tiệc bất ngờ, bữa tiệc hoa! Cũng theo tín
ngưỡng của người Nhật, nếu hoa đào rơi vào cốc chén của người thưởng hoa, người
ấy sẽ có được lộc xuân và niềm vui bất ngờ.
Còn biết bao bài thơ Haiku chứa đựng trong nó những khoảnh
khắc bất ngờ muôn màu muôn sắc, muôn hình muôn vẻ. Trong đó có những bài thơ yếu
tố bất ngờ không phát lộ tường minh mà tàng ẩn thật sâu xa:
Ao cũ / con ếch nhảy vào / vang tiếng nước xao (Basho)
Bước nhảy của con ếch nhỏ đã đánh thức cả vũ trụ tịch liêu.
Sự yên tĩnh tuyệt đối của mặt nước, của không gian, của thời gian, của vũ trụ
chỉ trong một tích tắc bỗng dưng bị phá vỡ. Rồi cũng chỉ trong chớp mắt, vạn vật
lại trở về trạng thái lặng yên vĩnh cửu. Lắng nghe dư âm, lặng nhìn dư ba, Thiền
sư hốt nhiên đốn ngộ ta và vũ trụ này là nhất thể khởi nguyên.
Tiếng thủy âm trong bài thơ này cũng giống như âm vang tiếng
đồng vọng trong bài thơ sau:
Tôi vỗ bàn tay /dưới trăng mùa hạ/ tiếng dội về ban mai
(Basho)
Nhiều bài thơ của Basho đẹp và sinh động như một bức tranh tả
cảnh, có vẻ như không liên quan gì đến ”đốn ngộ“ với ”bất ngờ“!
Trên cành liễu nghiêng ,
con bướm đổi chỗ
mỗi lần gió lên (Basho)
Thực ra, khi quan sát động thái của con bướm trong tương
quan với cành liễu và cơn gió, Thiền sư đã thấy con người và con bướm kia là một.
Cuộc sống là một dòng biến chuyển không ngừng, ta hãy như con bướm kia trên
cành liễu nghiêng trong trạng thái cân bằng an nhiên tự tại. Cám ơn cánh bướm
bé nhỏ đã mở lối vào đường Thiền thênh thang, vào đường đời gập ghềnh vạn nẻo!
Đến từ cuộc sống rồi tan biến vào cuộc sống, mang hơi thở và
nhịp đập của cuộc đời, Haiku vì thế chứa đựng trong nó yếu tố bất ngờ là một điều
giản dị, tự nhiên, dễ hiểu và thuận lý. Tìm hiểu về satna đốn ngộ, thời gian
khoảnh khắc và yếu tố bất ngờ trong thơ Haiku chính là con đường học thuật dẫn
dắt đến thế giới nghệ thuật thơ Haiku, thế giới của Cái Đẹp, của văn hóa Phù
Tang. Nó giúp ta tiếp cận và giải mã được một kiểu cấu tứ độc đáo của Haiku và
góp phần khẳng định sức sống, sức hấp dẫn kỳ lạ của thể thơ bé nhỏ nhất trong
thế giới rộng lớn này. Và hình như còn nhiều hơn thế nữa, nó giúp ta giác ngộ
được bao điều sâu sắc, mở ra trước mắt ta thế giới Cái đẹp muôn màu và dẫn dắt
ta tìm được sự bình tâm an lạc trên mọi nẻo trường đạo lẫn đường đời
Hoàng Xuân Vinh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét