THỰC TRẠNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006-2013
Như
chúng ta đều biết, ngay từ những năm đầu của thời kỳ đổi mới (từ nửa
cuối của những năm 80 của thế kỷ trước), đất nước ta đã có những thay
đổi khá ngoạn mục từ một nước nhiều năm nông nghiệp tăng trưởng âm (phải
nhập khẩu một lượng lương thực không nhỏ hàng năm) Đã chuyển sang một
nước xuất khẩu lương thực lớn đứng thứ hai thế giới. Trong 25 năm đổi
mới, mặc dù thế giới đã trải qua hai cuộc khủng hoảng kinh tế và tài
chính trầm trọng (bắt đầu vào năm 1997 và năm 2008) Gây suy thoái, suy
giảm cao đối với nền kinh tế trên toàn cầu, nhưng nền kinh tế Việt nam
liên tục trong các năm đạt tăng trưởng dương trong giai đoạn 2006-2013:
NĂM
|
2006
|
2007
|
2008
|
2009
|
2010
|
2011
|
2012
|
2013
|
GDP (%)
|
8,23%
|
8,46
|
6,31
|
5,32
|
6,78
|
5,89
|
5,03
|
5,42
|
LẠM PHÁT (%)
|
6,6
|
12,6
|
19,89
|
6,52
|
11,75
|
18,58
|
6,81
|
6,02
|
Nét
nổi bật trong thương mại năm 2006 có 3 sự kiện lớn: Việt Nam trở thành
thành viên thứ 150 của WTO, tổ chức thành công hội nghĩ APEC và Quốc hội
Hoa Kỳ thông qua Quy chế Thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) Với
Việt Nam và xuất khẩu đạt 39,6 tỉ USD vượt xa kế hoạch đầu năm, tăng
22,1% so với năm trước. Các sự kiện đó đánh dấu bước ngoặt trong hoạt
động thương mại của Việt Nam trong quá trình hội nhập sâu vào kinh tế
thế giới. Kinh tế năm 2007 tăng trưởng 8,46%, cao nhất kể từ năm 1997.
Tổng sản phẩm trong nước ước tăng 8,44%, đạt kế hoạch đề ra (8,0 -
8,5%), cao hơn năm 2006 (8,17%) Và là mức cao nhất trong vòng 11 năm gần
đây. Với tốc độ này, Việt Nam đứng vị trí thứ 3 về tốc độ tăng GDP năm
2007 của các nước châu Á sau Trung Quốc (11,3%) Và Ấn Độ (khoảng 9%) Và
cao nhất trong các nước ASEAN (6,1%). Tốc độ tăng trưởng GDP cả 3 khu
vực kinh tế chủ yếu đều đạt mức khá. Tuy nhiên mức lạm phát khá cao, con
số lạm phát đã tăng lên gấp đôi so với 2006,ở mức lạm phát 2 con số.
Tuy nhiên năm 2008, nền kinh tế Việt Nam chững lại, được cho bắt nguồn
từ nhiều nguyên nhân, trong đó có khủng hoảng tài chính năm 2007. Từ năm
2007, nền kinh tế đã có dấu hiệu lạm phát rất cao. Đặc trưng giai đoạn
này là tốc độ tăng trưởng kinh tế chững lại (chỉ đạt 5-6%/năm so với
7-8% giai đoạn trước). 2008 là một năm không vui với tăng trưởng GDP của
Việt Nam khi tốc độ tăng trưởng GDP chỉ đạt ~6,23%, thấp nhất kể từ năm
1999. Các năm 2007-2008, lạm phát tăng tốc và hàng năm đều ở mức
10-20%. Trong năm này, thách thức đạt ra là thị trường xuất khẩu bị thu
hẹp, dòng vốn nước ngoài giảm sút, thất nghiệp gia tăng. Sang tới năm
2009, cơn bão suy thoái kinh tế bắt đầu từ mỹ hùng mạnh tràn qua nhiều
nước khác, Hiệu ứng Domino đã xảy ra và Việt Nam đã không nằm ngoài vòng
xoáy cũng hứng chịu những tác động xấu của nền suy thoái kinh tế những
tháng đầu, quý đầu của năm 2009. Sự tác động của các yếu tố như lạm phát
bùng trở lại, kinh tế suy thoái nặng nề, sự tụt dốc của thị trường xuất
khẩu, thị trường chứng khoán ngay lập tức đã đến và mạnh hơn cả dự
tính. Việt Nam phản ứng kịp thời và nhanh chóng “giải cứu”
thoát khỏi khủng hoảng bằng gói kích cầu trị giá 14000 tỉ đồng, và các
chính sách hợp lí được đưa ra. Năm 2010, Việt Nam đã có sự khởi sắc,đã
có kinh nghiệm vận hành nền kinh tế thoát khỏi 2 cơn bão: Lạm phát và
suy thoái kinh tế. Thâm hụt thương mại cao và mất cân đối cán cân thanh
toán khiến cân bằng nền kinh tế thấp. Điểm đáng lưu ý là Việt Nam chủ
yếu nhập siêu từ Trung Quốc và các nước ASEAN; Trong khi đó lại xuất
siêu vào các nước phát triển như Mỹ, EU và Nhật Bản. Năm. Vốn đầu tư xã
hội/GDP năm 2011 đạt 33,3% thấp hơn kế hoạch đã đặt ra 40% là nguyên
nhân góp phần làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế trong năm. Cùng với
đó, lãi suất chưa giảm nhiều; Nhu cầu ngoại tệ và sức ép tỷ giá cuối năm
còn lớn; Nhiều doanh nghiệp (DN) Còn rất khó khăn.. . Hệ quả là mức
tăng trưởng kinh tế của cả năm 2011 chỉ đạt 5,89%, thấp hơn so với chỉ tiêu
điều hành là 6%. Lạm phát tăng cao nhất trong giai đoạn này. Bước sang
năm 2012, kinh tế - tài chính của Việt Nam tiếp tục bị ảnh hưởng bởi sự
bất ổn của kinh tế thế giới, do khủng hoảng tài chính và nợ công ở châu
Âu chưa được giải quyết. Suy thoái tại khu vực đồng Euro cùng với khủng
hoảng tín dụng và tình trạng thất nghiệp gia tăng, khiến cho hoạt động
sản xuất và thương mại toàn cầu bị tác động mạnh, giá cả hàng hóa
diễn biến phức tạp. Tốc độ tăng nhập khẩu trong năm 2012 chỉ dừng lại ở
mức 6,6% (chỉ số giá nhập khẩu giảm 0,33%), so với tốc độ tăng 25,83%
của năm 2011. Trong khi đó, xuất khẩu tăng chủ yếu do sự gia tăng đột
biến của mặt hàng điện thoại, máy vi tính và linh kiện (chủ yếu từ nhà
sản xuất Samsung) Đã khiến tốc độ tăng xuất khẩu của năm 2012 duy trì ở
mức 18,2% bất chấp chỉ số giá xuất khẩu trong năm giảm 0,54%. Kinh tế vĩ
mô cơ bản ổn định, lạm phát tiếp tục được kiểm soát, đến tháng 11/2013
CPI tăng 5,5%. Tăng trưởng tín dụng đến cuối tháng 11/2013 đạt 9%. Mặt
bằng lãi suất giảm, lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên ở mức 7
- 9%/năm. Kim ngạch hàng hóa
xuất khẩu 11 tháng đầu năm 2013 ước đạt 121 tỷ USD, tăng 16,2% so với
cùng kỳ năm trước, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 39,9 tỷ USD,
tăng 3,6%; Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) Đạt 81,2 tỷ
USD, tăng 23,5%. Đặc biệt, GDP bình quân đầu người đạt tới mức 1960
USD/năm, nước ta rơi vào bẫy thu nhập.
Mặc
dù đạt được những thành tựu tăng trưởng được phản ánh qua các con số kể
trên, nhưng có thể khẳng định rằng thời gian qua Việt nam mới chỉ chú ý
nhiều đến tăng trưởng về lượng (theo chiều rộng), mà chưa chú trọng đến
chất lượng
tăng trưởng, hiệu quả tăng trưởng (tức tăng trưởng kinh tế theo chiều
sâu). Trên thực tế, tăng trưởng của ta đã bộc lộ không ít bất cập làm chất lượng
tăng trưởng thấp, (không hiệu quả). Cụ thể là tăng trưởng chủ yếu dựa
vào thâm dụng vốn, tài nguyên và lao động. Tăng trưởng chủ yếu dựa vào
xuất khẩu và đầu tư nước ngoài. Tăng trưởng không đi liền với hiệu quả,
gây nhiều bất ổn trong xã hội và hủy hoại môi trường sinh thái.
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006 – 2008
Trong
hai năm 2006-2007, Việt Nam đã tận dụng những cơ hội thuận lợi trong
bối cảnh quốc tế như tăng trưởng kinh tế và thương mại cao trong năm
2006, FDI tăng mạnh trong năm 2007; Vượt qua các khó khăn, thách thức;
Duy trì tốc độ tăng trưởng cao. Nhưng khi bước vào năm 2008, những diễn
biến không thuận của tình hình kinh tế thế giới và những khó khăn trong
nội tại nền kinh tế đã có những tác động tiêu cực đến khả năng phát
triển của đất nước, ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống nhân dân.
GDP
GDP ở VN có hai nghịch lý:
- Tất cả các địa phương đều tăng trưởng cao hơn mức trung bình của các nước
- Đóng góp vào tăng trưởng GDP của 20% số tỉnh lớn hơn của cả nước. Đây thực chất là hệ quả của nghịch lý 1
“Con hổ của châu Á” là
cụm từ quen thuộc mà giới đầu tư quốc tế dành để nói về Việt Nam những
năm 2006 - 2007, gắn với nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng ấn tượng cùng
triển vọng từ cánh cửa WTO vừa mở. Kinh tế năm 2007 tăng trưởng 8,46%,
cao nhất kể từ năm 1997. Tổng sản phẩm trong nước ước tăng 8,44%, đạt kế
hoạch đề ra (8,0 - 8,5%), cao hơn năm 2006 (8,17%) Và là mức cao nhất
trong vòng 11 năm gần đây. Với tốc độ này, Việt Nam đứng vị trí thứ 3 về
tốc độ tăng GDP năm 2007 của các nước châu Á sau Trung Quốc (11,3%) Và
Ấn Độ (khoảng 9%) Và cao nhất trong các nước ASEAN (6,1%).
Nhưng, ảnh hưởng khủng hoảng ập tới, sự đứt gãy đến ngay trong năm 2008.
Năm
2008, tốc độ tăng trưởng chỉ đạt 6.23%, thấp hơn so với dự kiến ban
đầu. Tuy nhiên theo các chuyên gia, trong tình hình kinh tế thế giới
khủng hoảng, VN đạt được tốc độ tăng trưởng như vậy cũng đã là một thành
công.
Lạm phát
Năm
2007 và 2008, lạm phát của nước ta đã tăng cao và rơi vào tình trạng
khó kiểm soát, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) Tăng vọt lên mức 2 con số.
Nguyên nhân là do cùng với đà suy thoái kinh tế thế giới, đồng USD mất
giá, giá dầu thô tăng cao, giá cả lương thực và nguyên nhiên vật liệu
tăng đột biến cộng với tác động của thiên tai, dịch bệnh đã làm cho nền
kinh tế Việt Nam bộc lộ những nhược điểm cố hữu của một nền kinh tế đang
trong quá trình chuyển đổi. Năn 2008 chỉ số giá tiêu dùng ở nước ta
tăng vọt lên mức 19.89% cao nhất trong vòng 17 năm qua. Sau đó, nhờ
những nỗ lực kịp thời mà Chính phủ đã bình ổn được lạm phát, đưa nó về 1
con số 7% vào năm 2009.
NĂM
|
2006
|
2007
|
2008
|
2009
|
2010
|
2011
|
2012
|
2013
|
GDP (%)
|
8,23
|
8,46
|
6,31
|
5,32
|
6,78
|
5,89
|
5,03
|
5,42
|
LẠM PHÁT (%)
|
6,6
|
12,6
|
19,89
|
6,52
|
11,75
|
18,58
|
6,81
|
6,02
|
GDP bình quân đầu người (GDP/người)
Thu
nhập bình quân đầu người tăng khá cao trong 5 năm khủng hoảng, nhưng
ngược lại là sự mất giá của đồng tiền khiến đời sống dân cư không hẳn có
sự cải thiện tương ứng. Đồng VND mất giá khá mạnh so với USD trong giai
đoạn này khiến thu nhập bình quân đầu người tính bằng USD tăng chậm.
Năm
2008 thu nhập đã đạt 1.024 USD/người. Với mức thu nhập này việt nam lần
đầu tiên thoát ra khỏi nhóm nước nghèo. Như vậy năm 2008 đánh dấu mốc
phát triển kinh tế việt nam từ nhóm nước có thu nhập thấp nhất sang nhóm
nước có thu nhập trung bình dưới.
Tuy
nhiên, theo Vụ trưởng Vụ thống kê tài sản, mức thu nhập vượt ngưỡng
1.000USD này không đáng vui mừng khi chỉ số giá tiêu dùng cả năm đội lên
con số sấp xỉ 23%, trong khi mức tính cho năm 2007 chỉ là 8,3%. Việc
mất giá của đồng đô-la do CPI gây ra cũng vào khoảng 2,35%.
Với những chỉ số “dôi”
thêm như vậy, ông Bình khẳng định, không thể kết luận mức thu nhập bình
quân 1.024USD/người đạt được, Việt Nam đã vượt ngưỡng… nước nghèo, gia
nhập nhóm nước có thu nhập trung bình. Ông Bình nhẩm tính, nếu lấy mức
tăng giá và tỷ giá tiền tệ như ở thời điểm năm 2007 thì thu nhập bình
quân năm nay cũng chỉ vượt con số 900USD/người đôi chút.
................................
...............................
========================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét