THỂ LOẠI TIỂU THUYẾT TRONG VĂN HỌC ĐÔ THỊ VIỆT NAM
Văn học đô thị Việt Nam chỉ thực sự có và triển nở từ 1932. Khi
xã hội hình thành các yếu tố dân sự: Báo chí xuất bản tương đối tự do, văn chương
từ chỗ văn hóa quà tặng thành văn hóa hàng hóa,
tầng lớp
trí thức Tây học như là chủ/khách thể của văn học mới ra đời. Văn chương từ chỗ
con thuyền, cỗ xe chở đạo chuyển sang khám phá cái đẹp hoặc đi tìm những khoái cảm
thẩm mỹ. Rồi cái đẹp cũng từ chỗ chủ yếu là cái thần mở cửa sang cái thực, khiến
ra đời một dòng văn học mới là tả chân, hay tả thực, hay hiện thực chủ nghĩa. Từ
nhu cầu này mà ra đời văn xuôi nghệ thuật, tiêu biểu là tiểu thuyết, một thể loại
văn học của thời hiện đại và, dĩ nhiên, có tính hiện đại trong nghệ thuật biểu hiện
của nó.
Chuyển đổi không gian
Tiểu thuyết ra đời như là một chuyển đổi không gian. Trước hết
là không gian địa lý: Những câu chuyện được chuyển từ nông
thôn ra thành thị với những khung cảnh mới, những nhân vật mới. Nhưng, quan trọng
hơn, là chuyển đổi không gian xã hội. Quan hệ người – người ở làng quê trước đây
chủ yếu theo gia đình, họ tộc và láng giềng, thì nay ở thành phố chủ yếu theo quyền
lợi và sở thích, thúc đẩy phát triển con người cá nhân. Dần dần hình thành tư duy
tiểu thuyết, không đơn tuyến như truyện, mà phức hợp, đa tuyến, thậm chí đa
hệ và, cuối cùng, mang tính thế sự. Đó là tính hiện đại của tiểu thuyết như là một
sản phẩm của đô thị.
Tiểu thuyết 1932-1945 mang đầy đủ các điểm mạnh yếu của “thuở ban đầu”. Nó không còn như tiểu thuyết
chương hồi, hoặc ít nhiều tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, sắp xếp các sự kiện theo thời
gian biên niên, mà theo thời gian nghệ thuật, nhân vật không chỉ là một cỗ máy hành
động, mà là con người có nội tâm phong phú. Nhưng bản chất của nó vẫn là viết về
sự phiêu lưu, tức câu chuyện vẫn là tính thứ
nhất. Và, để tránh sự trùng lặp, nhà văn phải tìm đến những câu chuyện khác nhau. Bởi thế
hình thành các loại hình tiểu thuyết chủ yếu theo đề tài như tiểu thuyết lịch sử, phong tục,
đường rừng, trinh thám, gia đình, giáo dục, luận đề, xã hội…
Ở mỗi loại hình kể trên đều có những nhà văn tiêu biểu, như Nguyễn Triệu Luật cho
tiểu thuyết lịch sử, Nguyễn Công Hoan cho tiểu thuyết tả chân xã hội, Nhất Linh
cho tiểu thuyết luận đề, Phạm Cao Củng cho tiểu thuyết trinh thám, Đái Đức Tuấn
cho tiểu thuyết đường rừng…
Có lẽ, cuốn tiểu thuyết tiêu biểu vừa là về đô thị vừa là của
đô thị trong giai đoạn này là Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, giễu nhại cuộc sống của
đô thành Hà Nội
đang ào ạt Âu hóa. Cũng viết về đời sống đô thị, Sống mòn của Nam Cao lui về một
trường học ngoại ô với mấy anh giáo khổ. Tính đô thị của tiểu thuyết Nam Cao không
thể hiện ở sự kiện, mà ở tâm lý nhân vật. Nhà văn có tính đô thị nhất ắt hẳn là
Nhất Linh. Tiểu thuyết Nhất Linh chú trọng đến vấn đề giải phóng cá nhân, đề cao
cuộc sống cá nhân. Từ Đoạn tuyệt, tiểu thuyết luận đề xã hội, ủng hộ cá nhân, nhất
là phụ nữ, rời bỏ sự áp bức gia đình đến Bướm trắng đề cao quan niệm cá nhân chủ
nghĩa, Nhất Linh đã chạm đến tiểu thuyết hiện đại chủ nghĩa, gần với A. Gide.
Chuyển đổi hệ hình
Con đường mà tiểu thuyết Nhất Linh, phần nào Nam Cao, dừng bước
thì lại được tiếp tục ở thành thị miền Nam giai đoạn 1954-1975. Bấy giờ miền Nam
trở lại tình trạng liên thông với thế giới như hồi trước 1945, tạo điều kiện cho
văn nghệ sĩ tiếp thu những trào lưu văn chương đương đại. Nhất là với thế hệ sinh
viên, ít nhiều hoạt động văn học, ở Hà Nội
tạm chiến di cư vào Nam, như Mai Thảo, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền… Đến đất mới,
họ kiên quyết “chôn thơ mới,
chôn tiểu thuyết Tự lực Văn đoàn” để xây dựng một văn chương mới, hiện đại chủ nghĩa.
Tiểu thuyết của họ, bởi vậy, là sự phiêu lưu của cái viết, tức lúc này cách kể một
câu chuyện quan trọng hơn bản
thân câu chuyện. Cũng câu chuyện về Âu hóa như Số
đỏ, nhưng Thời thượng của Mai Thảo thì đã rất khác về cách viết. Còn Hồi chuông
tắt lửa của Thế Nguyên, Gia tài người mẹ của Dương Nghiễm Mậu, Đêm ngủ ở tỉnh của
Hoàng Ngọc Biên thì được viết theo lối hiện tượng học, hoặc theo kiểu tiểu thuyết
mới. Như vậy, tiểu thuyết thành thị miền Nam 1954-1975 đã sớm chuyển đổi hệ hình,
từ tiền hiện đại chủ nghĩa sang hiện đại chủ nghĩa, trong khi miền Bắc và sau đó
cả nước bước nhảy này chỉ thực hiện được từ Đổi mới và Mở cửa, 1986.
Những sáng tác tiền Đổi mới, nếu không kể thời điểm xuất bản,
phải nói đến Những ngã tư và những cột đèn (viết 1966, in 2010). Ở tiểu thuyết này
Trần Dần sử dụng nhiều thủ pháp hiện đại chủ nghĩa cho một nội dung có câu chuyện rõ ràng. Sau đó
là Nguyễn Minh Châu với Phiên chợ Giát. Thực sự chỉ đến Nguyễn Huy Thiệp với những
truyện ngắn mang tính tiểu thuyết, sau đó là
Phạm Thị Hoài, rồi Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh thì lúc này cả nước mới có
tiểu thuyết hiện đại chủ nghĩa. Sau thời Đổi mới, một cuộc cách mạng từ trên xuống,
ngắn ngủi, văn chương Việt Nam chuyển sang thời hậu Đổi mới, một cách mạng từ dưới
lên, có tính cá nhân và tự giác. Tiểu thuyết vẫn tiếp tục phát triển theo hướng
hiện đại chủ nghĩa, thậm chí chạm tới hậu hiện đại. Như Cõi người rung chuông tận
thế, SBC săn bắt chuột của Hồ Anh Thái, Đi tìm nhân vật, Giã từ bóng tối của Tạ
Duy Anh, Trí nhớ suy tàn, Thoạt kỳ thủy, Ngồi của Nguyễn Bình Phương… Đặc biệt là
những tiểu thuyết viết về đô thị, hay có khung cảnh đô thị của Nguyễn Việt Hà (Cơ
hội của Chúa, Khải huyền muộn, Ba ngôi của người), của Đặng Thân (3.3.3.9, Những
mảnh hồn trần), của Thuận (Phố Tàu, T mất tích…), của Đỗ Phấn…
Chưa thành nhịp mạnh
Trải gần một thế kỷ, tiểu thuyết đô thị Việt Nam nói riêng và
văn học đô thị Việt Nam nói chung chưa phải là một nhịp mạnh của văn học Việt Nam.
Điều này hẳn do đô thị Việt Nam chưa phải là nguyên nhân/kết quả của một xã hội
dân sự. Bởi thế, từ Vũ Trọng Phụng đến Nguyễn Huy Thiệp vẫn còn y nguyên cái nhìn
đô thị qua sự hoài niệm nông thôn. Một cái nhìn tiêu cực khác về đô thị Việt Nam
đến từ những nhà văn có điều kiện học tập hoặc sống ở những đô thị hiện đại, “chuẩn”, ở nước ngoài như Phạm Thị Hoài,
Thuận. Không nhiều người như Nhất Linh thời Tự lực Văn đoàn, phần nào Nguyễn Việt
Hà hôm nay, khẳng định mặt tích cực của thành phố để mà hiện đại hóa tiểu thuyết
của mình. Tuy nhiên, chỉ ở những nhà văn nào có sự chuyển đổi tâm thức, thay đổi
cái nhìn nghệ thuật, cái nhìn thế giới thì sự hiện đại hóa nghệ thuật mới hy vọng
thành công, cái thủ pháp mới từ kỹ thuật trở thành nghệ thuật.
Mong các nhà văn viết về đô thị hãy nhìn xuống “dưới đáy”
TS. Đỗ Hải Ninh: Trong văn học đương đại đã có những tác giả
thành công khi viết về đô thị, thể hiện được nét đặc sắc cuộc sống và con người
đô thị như Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Việt Hà, Đỗ Phấn, Nguyễn Danh Lam, Trần Nhã
Thụy… Sáng tác của họ đã chạm đến nơi sâu khuất của con người và đời sống đô thị:
Nỗi cô đơn, sự trống rỗng, cuộc sống đơn điệu, thiếu vắng. Cuộc sống đô thị vừa
là biểu tượng của cái hiện đại, của văn minh công nghiệp, đầy cám dỗ vừa ẩn chứa
những đe dọa, với sự tha hóa nhân tính và nỗi mặc cảm…
Nhiều tác giả văn xuôi, đặc biệt là các cây bút trẻ hiện nay
có xu hướng tìm đến những không gian đô thị khác lạ, mới mẻ, không gian hải ngoại,
đó cũng là ý thức kiến tạo không gian đô thị của người viết. Văn học viết về đô
thị đương đại đã rất thành công khi kiến tạo nên kiểu nhân vật trí thức, nhưng tôi
vẫn mong các nhà văn viết về đô thị hãy nhìn xuống “dưới đáy” để có nhiều tác phẩm thể hiện được đời sống đô thị đa diện,
đa chiều hơn nữa.
Văn học đô thị sẽ là một chủ đề nổi trội
ThS. Nguyễn Mạnh Tiến: Nếu như văn học đô thị ở phương Tây là
một dòng phát triển lớn, có nhiều thành tựu đáng kể thì văn học đô thị ở Việt Nam,
dù là một vấn đề thú vị, vẫn chưa phải là dòng chủ lưu. Đó là, đô thị Việt Nam cho
đến nay vẫn chưa thực sự là đô thị theo đúng nghĩa của nó. Đô thị Việt Nam là sự
chắp vá, chỉ là “cái siêu
làng” trương nở ra mà thôi.
Vì thế, người sống ở đô thị Việt Nam, trong đó có cả các nhà văn, vẫn mang nặng
tâm tính, nếp nghĩ, nếp cảm của nông dân, cho dù họ có tuyên bố là đã “đô thị hóa” hoàn toàn. Chính bởi thế, văn học đô thị dù hình
thành nhưng không phát triển mạnh mẽ và chưa được giới nghiên cứu đi sâu tìm hiểu.
Tuy vậy, cùng với sự phát triển của các đô thị, sự mở rộng các đô thị xâm lấn vùng
nông thôn, có thể nhìn thấy trước văn học đô thị sẽ là một chủ đề nổi trội.
Cảm thức đô thị đương đại đòi hỏi nỗ lực làm mới bút pháp và
thể loại
ThS. Mai Anh Tuấn: Sự vắng mặt hoặc bị lép vế khá lâu của tầng
lớp
trung lưu đô thị và tư sản nội địa trong xã hội miền Bắc từ sau 1945 khiến cho văn
học giai đoạn này ít đề cập đến đô thị. Phải từ Đổi mới, trong sáng tác của Nguyễn
Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài thì đô thị mới tái xuất với tư cách là nơi chốn của các
yếu tố thị trường và nhân cách, đạo đức mới/khác có khả năng phá vỡ các giá trị
mặc định và đối kháng với nông thôn. Muộn hơn, trong sáng tác của Nguyễn Việt Hà
và gần đây là của các nhà văn trẻ, đô thị được nhìn ở khía cạnh lịch sử, thế tục
của nó, nơi cần đến thái độ chấp nhận hơn là chối từ, dù về cơ bản, nó luôn khía
vào nỗi cô đơn, lạc lõng, sự phân rã của con người. Cảm thức đô thị đương đại, vì
thế, đòi hỏi những nỗ lực làm mới bút pháp và thể loại để vừa lòng độc giả ngày
một sành sõi.
Định vị nhà văn trong không gian đô thị là cần thiết
ThS. Đoàn Ánh Dương: Văn học đô thị nên được hiểu như thế nào?
Có lẽ để cho minh xác, ta nên lưu ý đến sự kết đôi của hai vấn đề: Văn học về/của
đô thị. Văn học về đô thị tức văn học lấy đô thị làm đề tài, cái đô thị có trước, đô thị là một
thực thể, và văn học thể hiện nó trong sáng tác. Văn học của đô thị xác định tính
chất đô thị của nó, làm cho nó khác với văn học về nông thôn, miền núi chẳng hạn.
Tính đô thị rất quan trọng, làm nên phẩm chất của văn học đô thị. Theo đó, có thể
hiểu văn học đô thị là văn học viết về đô thị và có tính đô thị, ở đây là tính hiện
đại, dân chủ, dân sự trong đề tài và cách thức tiếp cận với đề tài ấy. Điểm quan trọng nữa là ai làm nên
văn học ấy? Định vị nhà văn trong không gian đô thị là cần thiết. Nhà văn ở trong
đô thị, và quan trọng hơn, có ý thức trở thành đô thị, mới tạo nên văn học đô thị
đích thực. Ở ngoài đô thị khó có được cảm quan đô thị, trong khi thuộc về đô thị
nhà văn vẫn có thể sáng tạo ở chủ đề khác. Khai thác tính chất thế tục của đời sống
đô thị hay khai thác cá nhân cá tính đều giúp văn học đô thị phát triển đa dạng,
cố nhiên khi nhà văn định vị bản thân vào không gian xã hội và văn chương (của)
Thị thành.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét